- Báo cáo hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân – Tổng kết và phương hướng nhiệm vụ
- Mẫu Báo cáo tự kiểm tra, giám sát của Đảng viên mới nhất 2024
- Báo cáo thành tích tập thể: Mẫu chuẩn nhất 2024
- Báo cáo khách hàng: Quản lý khách hàng hiệu quả hơn thông qua Phân tích các Chỉ số “vàng”
- Mẫu báo cáo tự kiểm tra Đảng viên chấp hành điều lệ Đảng (5 mẫu) Báo cáo tự kiểm tra Đảng viên năm 2023
Trong giai đoạn 2014-2020, ngành dược ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý. Tiến bộ đáng kể đã được đạt đối với việc cung ứng thuốc phục vụ khám chữa bệnh và phòng bệnh. Dựa vào số liệu, mức gia tăng hàng năm về mức độ tiêu thụ thuốc tính trên đầu người giai đoạn 2015-2019 là 12%. Giá trị thuốc sử dụng tính trên đầu người năm 2019 tăng 56,4% so với 5 năm trước đó, đạt tổng giá trị thuốc tiêu thụ năm 2019 là 5,62 tỷ đô la Mỹ.
Bạn đang xem: Tin tức
Số cơ sở bán lẻ thuốc cũng đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2014-2019, đồng nghĩa với việc người dân có thêm cơ hội tiếp cận thuốc thuận tiện hơn. Mật độ dân cư trên 1 cơ sở bán lẻ thuốc cũng đã giảm từ 2.217 người xuống còn 1.564 người. So với mức trung vị 4.182 người trên 1 cơ sở bán lẻ thuốc trên toàn cầu, mức độ tiếp cận thuốc trong cộng đồng tại Việt Nam được xem là cao hơn nhiều. Thị trường thuốc cơ bản được duy trì bình ổn, đáp ứng đủ thuốc phục vụ điều trị và không để xảy ra tăng giá đồng loạt và đột biến.
Xem thêm : Báo cáo Công nợ Phải thu Khách hàng: Thu hồi nợ mà không mất đi khách hàng
Mặc dù số lượng SĐK được cấp trong năm 2019 giảm so với năm trước đó, tổng SĐK thuốc vẫn tăng 12,3% so với năm 2015. Trong giai đoạn này, nhóm thuốc chuyển giao công nghệ có mức độ gia tăng trong gia nhập thị trường tốt nhất, lên tới 100%. Tiếp theo là nhóm dược liệu sản xuất trong nước với tốc độ gia tăng về SĐK là 76,4%. Trong khi đó, số lượng SĐK thuốc nhập khẩu đã giảm 11% sau 5 năm. Thị trường thuốc cơ bản được duy trì bình ổn, đáp ứng đủ thuốc phục vụ công tác điều trị, không để xảy ra tăng giá đồng loạt và đột biến. Việc ban hành và triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá thuốc và đấu thầu thuốc đã giúp tiết kiệm ngân sách và giảm chi phí mua thuốc tại các bệnh viện. Thực hiện Đề án “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam”, tỷ lệ sử dụng thuốc sản xuất trong nước trung bình tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã tăng nhanh qua các năm, từ mức 46,62% năm 2013 tăng lên 63,53% năm 2018. Tỷ lệ giá trị sử dụng thuốc trong nước trung bình tại các cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh cũng có những sự tăng trưởng đáng kể, đạt trung bình 57,03% trong năm 2018, cao hơn nhiều so với năm 2013 (34,11%). Tương tự như tuyến tỉnh, tỷ lệ sử dụng thuốc sản xuất trong nước tại các bệnh viện tuyến huyện cũng đã đạt mức trung bình 76,62% trong năm 2018.
Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có 222 nhà máy sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP WHO. Trong số đó có 6 nhà máy sản xuất vắc xin trong nước đã cung ứng được 10 loại vắc xin trong tổng số 12 loại vắc xin của Chương trình Tiêm chủng mở rộng. Cơ sở sản xuất thuốc từ dược liệu cũng đã tăng lên 67 nhà máy (trong đó có 39 nhà máy chỉ sản xuất thuốc từ dược liệu). Ngoài ra, còn có 3 nhà máy sản xuất nguyên liệu thuốc (Bắc Ninh, Nanogen, Novaglory). Có 18 cơ sở có dây chuyền sản xuất thuốc đạt EU-GMP hoặc tương đương như Stada Việt Nam, Pymepharco, Sanofi, Savipharm, Medochemie, Tenamyd, Nipro Pharma Việt Nam, Rohto-Mentholatum Việt Nam, Phil Inter Pharma, Imexpharm Bình Dương, Imexpharm Vĩnh lộc. Ngoài ra, còn có các cơ sở có dây chuyền đạt PIC/S-GMP như Fresenius Kabi Bidiphar (HSA – Singapore) và Korea United (Hàn Quốc).
Tuy nhiên, ngành dược ở Việt Nam cũng đối mặt với một số hạn chế và thách thức. Sản xuất thuốc trong nước chưa có tính cạnh tranh cao và bền vững. Các cơ sở sản xuất thuốc chủ yếu đầu tư vào các dạng bào chế đơn giản mà hạn chế đầu tư và công nghệ sản xuất các dạng bào chế hiện đại. Sản xuất thuốc có giá trị thấp và các dây chuyền sản xuất đơn giản. Các thuốc biệt dược và thuốc chuyên khoa đặc trị với dạng bào chế phức tạp phải nhập khẩu từ nước ngoài. Một phần nguyên nhân là do thiếu sự hỗ trợ và định hướng của Nhà nước về vốn và đầu ra của sản phẩm. Chính sách hỗ trợ phát triển thuốc generic cũng chưa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Trình độ về kỹ thuật công nghệ cũng còn hạn chế và chưa có nguồn lực đầu tư.
Xem thêm : Một số mẫu Báo cáo công tác chi bộ năm 2024 được dùng phổ biến
Việc đảm bảo tiếp cận thuốc cũng bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện một số chính sách liên quan như mua sắm đấu thầu và thanh toán BHYT. Vấn đề thiếu nhân lực cho phát triển lĩnh vực như dược lâm sàng, quản lý chất lượng và nghiên cứu phát triển thuốc mới cũng gây ảnh hưởng. Sử dụng thuốc chưa phù hợp và hiệu quả cũng là một vấn đề nổi lên trong ngành dược. Sự phát triển của ngành cũng đòi hỏi phải có chiến lược mới phù hợp với tình hình thực tế.
Để giải quyết những thách thức này, ngành dược Việt Nam cần thiết lập một định hướng phát triển mới trong giai đoạn 2021-2030. Định hướng này bao gồm các mục tiêu như nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi sản xuất và cung ứng dược phẩm, dịch vụ y tế, và tăng cường kiểm soát chất lượng dược liệu ngoại nhập. Chính sách nhà nước cần tập trung vào bảo đảm cung ứng thuốc đủ số lượng, tốt chất lượng, giá hợp lý và khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước. Đồng thời, phải tăng cường năng lực nghiên cứu và sản xuất thuốc, vắc-xin và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành dược.
Định hướng phát triển ngành dược cũng cần quan tâm đến công nghệ thông tin và số hóa trong chuỗi cung ứng thuốc. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và số hóa trong toàn bộ chuỗi cung ứng thuốc là một yêu cầu tất yếu và hiện hữu trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0.
Với những định hướng và chính sách mới, ngành dược ở Việt Nam hi vọng sẽ đạt được sự phát triển lớn mạnh trong các năm tới.
Nguồn: https://ispacedanang.edu.vn
Danh mục: Mẫu báo cáo